Danh nhân Việt Nam tuổi Sửu

A, sinh năm Tân Sửu 761, quê ở làng Đường Lâm, nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Sinh thời, A là người khoẻ mạnh và dũng lược. Chính ông đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa lớn, đập tan chính quyền đô hộ của nhà Đường, xây dựng nền độc lập tự chủ trong một thời gian khá dài, được nhân dân suy tôn là Bố cái Đại vương. Ông mất năm 802 (41 tuổi).

Trần Quang Khải, sinh năm Tân Sửu 1241. Ông là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông; là nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thơ lớn của dân tộc. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh Đại vương, từng được cử làm Thượng tướng Thái. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Trần Quốc Tuấn có nhiều công lao lớn trên chiến trường. Ông còn là một nhà thơ với tâm hồn thơ khoáng đạt, gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Lê Lợi, sinh năm Ất Sửu 1385. Quê tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Lê Lợi là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh, là anh hùng giải phóng dân tộc và là người sáng lập vương triều nhà Lê, mở ra thời kỳ thịnh trị lâu dài trong lịch sử dân tộc. Sau khi đánh thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua với hiệu là Lê Thái Tổ, ở ngôi 5 năm và cũng mất vào năm Sửu (1433).

Nguyễn Văn Tố, sinh năm Kỷ Sửu 1889, quê Hà Đông - Hà Nội, là học giả nổi tiếng làm việc nhiều năm tại Trường Viễn Đông Bác Cổ; là Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ trước năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ Lâm thời và sau đó là Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (như Chủ tịch Quốc hội hiện nay) Khóa 1 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 10/1947, thực dân Pháp tấn công lên chiến khu Việt Bắc, ông bị địch bắt và giết hại.

Trần Huy Liệu, sinh năm Tân Sửu 1901, quê Vụ Bản, Nam Định. Ông là nhà báo, nhà văn, nhà sử học, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, là đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng sau này ly khai tổ chức này và gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là người sáng lập ra Cường học thư xã ở Sài Gòn (1928), chuyên xuất bản sách và cổ vũ tinh thần yêu nước. Từng bị thực dân Pháp bắt và đưa đi đày ở Côn Đảo, Sơn La. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được bầu là Phó Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng. Sau đó ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong Chính phủ Lâm thời. Cuối tháng 8/1945, ông cùng Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào Huế tiếp nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại. Sau này ông chuyên tâm nghiên cứu khoa học lịch sử, làm Viện trưởng Viện Sử học và qua đời năm 1969. Ông được Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) mời làm viện sĩ. Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về văn học nghệ thuật.

Phùng Chí Kiên, sinh năm Tân Sửu 1901, quê Diễn Châu, Nghệ An, từng theo học các lớp huấn luyện cán bộ tại Quảng Châu do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở; học viên trường võ bị Hoàng phố. Năm 1931, ông vào học đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Maxcova, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1941), hoạt động thường xuyên tại Hồng Kông, Côn Minh (Trung Quốc) và Cao Bằng. Ông là người chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn- Võ Nhai, bị thực dân Pháp bắt và xử tử bằng cách chặt đầu năm 1941. Ông là học trò gần gũi và thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cán bộ tiền bối của Đảng và là nhà quân sự có tài.

H.G (Sưu tầm)

Nguồn: https://baoquankhu7.vn

Comment(s)